Suzuki XL7 phiên bản mới nhất hiện nay có một số nâng cấp đáng chú ý cả về thiết kế, trang bị tiện nghi, trải nghiệm lái cũng như các tính năng an toàn và công nghệ động cơ tối ưu đạt tiêu chuẩn khí thải Euro5 thân thiện và siêu tiệt kiệm nhiên liệu.
Được đánh giá là mẫu SUV 7 chỗ đa dụng với thiết kế ngoại thất thanh lịch, thể thao và mạnh mẽ, Suzuki XL7 phiên bản mới hiện tại sẵn sàng đáp ứng tốt nhu cầu cũng như cung cấp cho người dùng những trải nghiệm hoàn hảo hơn.
Giá xe Suzuki XL7 mới nhất bao nhiêu
Dòng xe Suzuki XL7 tại thị trường Việt Nam là thế hệ thứ 3, hiện được giới thiệu đến khách hàng với 3 tùy chọn phiên bản và có giá công bố tương ứng cụ thể như sau:
Suzuki XL7 tiêu chuẩn Giá: 599,900,000 vnđ |
Suzuki XL7 ghế da Giá: 609,900,000 vnđ |
Suzuki XL7 Sport Limited Giá: 639,900,000 vnđ |
Với mức giá công bố của 3 phiên bản xe Suzuki XL7 như trên thì so với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp trong phân khúc xe 7 chỗ tầm trung cho thấy: Dòng xe Suzuki XL7 thật sự là một lựa chọn khó có thể chối từ khi sở hữu mức giá cạnh tranh rất tốt cùng với nhiều trang bị, tính năng và công nghệ tương tự, cụ thể:
- Giá xe Suzuki XL7 công bố từ 599,9 triệu đồng
- Giá xe Toyota Rush công bố từ 633 triệu đồng
- Giá xe Mitsubishi Xpander Cross công bố từ 670 triệu đồng
(*) Lưu ý: Giá bán tổng hợp so sánh chỉ mang tính chất tham khảo
Như vậy, khi so sánh giữa giá xe Suzuki XL7 với một số đối thủ cùng phân khúc được nói đến ở trên, bạn hoàn toàn có thể khẳng định rằng: Mua xe Suzuki XL7 chắc chắn là một sự đầu tư tốt và hợp lý hơn so với túi tiền của phần lớn khách hàng Việt.
LIÊN HỆ LÁI THỬ | TƯ VẤN TRẢ GÓP | THÔNG TIN ƯU ĐÃI |
|
Hotline: 0888.666.279 |
Giá xe Suzuki XL7 lăn bánh tại Gia Lai bao nhiêu
Để Suzuki XL7 có thể lăn bánh, bên cạnh giá xe công bố thì người mua xe cần hoàn thành các thủ tục và chi trả các khoản phí có liên quan khác theo quy định của nhà nước. Theo đó, giá xe Suzuki XL7 lăn bánh tại Gia Lai cơ bản bao gồm những nội dung cụ thể như sau:
Khoản phí |
Phí lăn bánh xe XL7 tại Gia Lai (đồng) |
Giá niêm yết |
599,900,000 |
Phí trước bạ |
59,990,000 |
Phí đăng kiểm |
340,000 |
Phí bảo trì đường bộ |
1,560,000 |
Bảo hiểm TNDS |
873,400 |
Bảo hiểm thân vỏ |
7,678,000 |
Phí biển số |
1,000,000 |
Tổng giá xe lăn bánh: |
671,341,400 |
Phí lăn bánh xe tạm tính: |
71,441,400 |
(*)Lưu ý: Biểu phỉ chỉ mang tính chất tham khảo
Điểm nổi bật của Suzuki XL7 như thế nào
Về thiết kế ngoại thất xe
Điểm ấn tượng đầu tiên có thể nhận thấy dễ dàng là thiết kế tổng thể xe Suzuki XL7 mới thật sự bắt mắt, mang đậm phong cách của một mẫu SUV mạnh mẽ, thể thao và hiện đại. Nhất là với phiên bản giới hạn Suzuki XL7 Sport Limited.
Phiên bản Suzuki XL7 Sport Limited
Hệ thống đèn pha LED, đặc biệt với dải đèn chiếu sáng ban ngày của Suzuki XL7 khá nổi bật càng làm tăng thêm vẻ sắc sảo cho phần đầu xe. Ngoài ra, đèn pha LED phản quang tạo sự hấp dẫn và tăng thêm cường độ ánh sáng cho người lái, giúp đảm bảo an toàn hơn khi điều khiển xe vào ban đêm.
Mẫu SUV 7 chỗ Suzuki XL7 còn được tôn thêm độ “cơ bắp” khi trang bị bộ mâm hợp kim 16 inch 5 chấu kép, cản trước và sau được mạ bạc cùng khung bảo vệ xung quanh thân xe bằng nhựa đen giúp xe tránh được những hỏng hóc, trầy xước. Phía trên thân xe là giá nóc giúp tăng sức chứa hành lý và tăng tính thực dụng cho Suzuki XL7.
Phần đuôi xe khá giống với mẫu Suzuki Ertiga nhưng cản sau có thiết kế thể thao và cá tính hơn nhờ được trang bị thêm đuôi lướt gió. Ngoài ra, Suzuki XL7 có kích thước 4450 x 1775 x 1710mm ở L x 1775 x 1710mm và khoảng sáng gầm 200mm, thông số kỹ thuật tốt hơn so với người anh em của nó.
Về thiết kế và trang bị nội thất
Nội thất của Suzuki XL7 được bố trí khá tốt, với 3 hàng ghế đủ cho 7 hành khách là người lớn. Một số tính năng đáng chú ý của XL7 bao gồm màn hình giải trí cảm ứng trung tâm 10 inch, điều hòa tự động phía trước, khởi động bằng nút bấm, vô lăng D-Cut, ghế nỉ (hoặc tùy chọn ghế da), bảng đồng hồ sắc nét, gương chỉnh 2 chế độ ngày / đêm, ổ cắm phụ kiện cho từng hàng ghế,...
Về trang bị động cơ
Suzuki XL7 được trang bị động cơ 1,5 lít 4 xi-lanh với công suất 105 mã lực và mô-men xoắn 138 Nm. Xe được trang bị hộp số tự động 4 cấp. Ngoài ra, XL7 còn được gia cố thêm các vật liệu tiêu âm đặc biệt nhằm mang đến không gian yên tĩnh và thoải mái hơn cho hành khách trên xe.
Đặc biệt, các phiên bản XL7 mới được nâng cấp hệ thống khí thải đạt tiêu chuẩn Euro5 thân thiện với môi trường và giúp động cơ vận hành tiết kiệm nhiên liệu tối ưu hơn.
Ưu điểm nổi bật của Suzuki XL7
- Thiết kế hiện đại, đẹp mắt theo phong cách SUV điển hình
- Giá bán cạnh tranh hấp dẫn nhất phân khúc
- Vận hành ổn định, bền bỉ và tiết kiệm nhiên liệu tối ưu
- Nội thất rộng rãi, thoải mái và đầy tính thực dụng
Hỗ trợ mua xe Suzuki XL7 trả góp tại Gia Lai
Bạn muốn mua xe XL7 trả góp linh hoạt tại Gia Lai? Đại lý ô tô Suzuki Bình Định sẵn sàng hỗ trợ bạn với nhiều ưu đãi đặc biệt hấp dẫn nhất. Để mua xe Suzuki XL7 trả góp bạn chỉ cần chuẩn bị các thủ tục hồ sơ sau:
- Giấy tờ tùy thân: CMND/CCCD hoặc hộ chiếu, sổ hộ khẩu hoặc KT3, giấy đăng ký kết hôn hoặc giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.
- Hồ sơ mục đích vay vốn: Giấy đề nghị vay vốn, hợp đồng mua xe, phiếu đặt cọc...
- Hồ sơ nguồn trả nợ: Hợp đồng lao động, bảng lương/sao kê lương, đăng ký kinh doanh/sổ sách, hợp đồng cho thuê nhà/thuê xe.
Quy trình mua xe Suzuki XL7 trả góp cụ thể sẽ được nhân viên đại lý hỗ trợ bạn miễn phí 100%.
Thông số kỹ thuật xe Suzuki XL7 mới nhất
Thông số kỹ thuật |
Suzuki XL7 |
Số chỗ ngồi |
07 chỗ |
Nguồn gốc |
Nhập khẩu |
Động cơ |
xăng, K15B 1.5L, i4, 16 valve |
Dung tích xylanh |
1462cc |
Công suất cực đại |
104Ps/ 6000 rpm |
Mô men xoắn tối đa |
138Nm/ 4400 rpm |
Hộp số |
5MT/4AT |
Dẫn động |
2WD/ FF |
Kích thước tổng thể DRC |
4450 x 1775 x 1.710 mm |
Chiều dài cơ sở |
2740mm |
Khoảng sáng gầm xe |
200mm |
Bán kính vòng quay |
5.1m |
Bánh xe |
195/60 R16 |
Phanh trước/sau |
Đĩa thông gió/Tang trống |
Tự trọng (kg) |
1180 (MT), 1190 (AT) |
Dung tích bình xăng |
45L |
Dung tích khoang hành lý |
153L/550L |
Đôi nét giới thiệu về tỉnh Gia Lai
Diện tích tự nhiên: 15.510,9 km2
Dân số: 1.541.829 người (2020)
Mã vùng: 84 / 059
Thành phố thuộc tỉnh: Pleiku.
Thị xã: An Khê, Ayun Pa.
Các huyện: Đak Pơ, Đak Đoa, Chư Pah, Chư Prông, Chư Sê, Đức Cơ, Ia Grai, Kbang, Krông Pa, Kông Chro, Mang Yang, Ia Pa, Phú Thiện, Chư Pưh.
Dân tộc: Việt (Kinh), Jrai, Bahnar,...
Vị trí địa lý tỉnh Gia Lai
Tỉnh Gia Lai nằm ở phía bắc của cao nguyên miền Trung, có độ cao trung bình từ 700-800 mét. Tỉnh Gia Lai có diện tích 15.510,9 km2, vĩ độ 12°58'20" đến 14°36'30" bắc và kinh độ 107°27'23"đến 108°54'40" đông.
Gia Lai giáp với tỉnh Kon Tum về phía bắc, tỉnh Đắk Lắk về phía nam, Campuchia về phía tây với đường biên giới 90 km, và các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Phú An về phía đông.
Khí hậu ở Gia Lai
Gia Lai có khí hậu nhiệt đới gió mùa, hai mùa trong năm: mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4. Lượng mưa trung bình ở khu vực Tây Trường Sơn là 2.200 đến 2.500 mm, và lượng mưa trung bình ở khu vực Đông Trường Sơn là 1.200 đến 1.750 mm. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 22-25ºC.
Điều kiện kinh tế xã hội tỉnh Gia Lai
Tỉnh Gia Lai có dân số 1.541.829 người (số liệu năm 2020), gồm 34 dân tộc anh em cùng chung sống. Trong đó, người Việt (Kinh) chiếm 52% dân số. Còn lại là các dân tộc Jrai (33,5%), Bahnar (13,7%), Giẻ-triêng, Xơđăng, Thái và Mường.
Cư dân Gia Lai có thể được chia thành hai bộ phận: cư dân lâu đời ở Gia Lai bao gồm các dân tộc Jrai và Bahnar, và những người mới đến bao gồm người Việt và các dân tộc khác.
Từ cuối thế kỷ XVII, những người Việt đầu tiên đã đến vùng An Khê (phía đông bắc tỉnh). Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ 19, người Việt định cư ở Gia Lai vẫn còn rất hiếm và chỉ tập trung ở vùng An Khê.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, từ năm 1923 đến năm 1945, chính quyền thực dân đã đưa một số người Việt từ đồng bằng duyên hải miền Trung vào làm công nhân trên các đồn điền chè, cà phê và các công trường xây dựng đường dọc tuyến quốc lộ 14 và 19.
Từ năm 1954 trở đi, dân số người Việt ở Gia Lai tăng nhanh, do chính quyền Sài Gòn tuyển dụng công chức, viên chức, cuộc di dân miền Bắc năm 1954 và chính sách cưỡng bức dân miền Trung vào lập điền trang.
Sau ngày thống nhất (1975), Đảng và Nhà nước đã điều động một số lượng lớn người Kinh từ miền Bắc và miền Trung vào xây dựng kinh tế, bảo vệ Tổ quốc và điều động thêm cán bộ cho Tây Nguyên nói chung và tỉnh Gia Lai nói riêng, làm cho số lượng người Kinh ở Gia Lai tăng nhanh.
Dân tộc Jrai (Jorai, Jarai, Gia Rai) là một trong năm dân tộc Mã Lai Đa Đảo (Malayo - Polinesien ) gồm có: Jrai, Êđê, Chăm, Raglai, Chu Ru hiện đang sinh sống ở khu vực phía nam Trường Sơn và Đồng bằng duyên hải miền Trung. Địa bàn cư trú từ nam Kon Tum đến bắc tỉnh Đăk Lăk (hướng bắc nam) và tây bắc tỉnh Phú Yên đến khu vực biên giới giáp Campuchia (hướng đông tây). Trong khu vực cư trú này, Gia Lai là nơi tập trung đông đúc nhất của người Jrai. Các khu định cư chính là ở phía tây cao nguyên Pleiku (thuộc các huyện Chư Păh, Ia Grai, Đức Cơ, Chư Prông, Chư Sê, và Pleiku) và vùng trũng Cheo Reo - Phú Túc ở phía Đông Nam của tỉnh (thuộc thị xã Ayun Pa và các huyện Phú Thiện, Ia Pa, Krông Pa).
Với cộng đồng dân tộc thiểu số chiếm ưu thế, ý thức dân tộc và ý thức lãnh thổ quốc gia khá rõ nét, họ sống ở khu vực đầu mối giao thông chính nối miền Trung và bắc Tây Nguyên nên người Jrai ở Gia Lai chiếm giữ một vị trí đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị và an ninh - quốc phòng. Đây là bộ phận dân cư có nhiều đóng góp quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của tỉnh. Trong thời kỳ giải phóng dân tộc và chống Nhật, giữ nước, những tên tuổi như Thầy giáo Nay Đer, anh hùng Kpa Ó, Kpui Thu...đã đi vào lòng đồng bào Tây Nguyên và nhân dân cả nước.
Người Bahnar (Ba Na) là một trong những dân tộc thuộc ngữ hệ Môn-Khmer. Các khu dân cư chính ở phía nam của tỉnh Kon Tum, phía bắc và phía đông của tỉnh Gia Lai. Ngoài ra, một số người Bahnar nằm rải rác ở khu vực phía Tây của các tỉnh Bình Định và Phú Yên.
Tại tỉnh Gia Lai, các khu định cư tập trung của người Bahnar nằm ở phía đông cao nguyên Pleiku (thuộc huyện Mang Yang và Đak Đoa, phía bắc huyện Chư Pah), ở cao nguyên Kon Hơnờng (huyện Kbang), vùng trũng An Khê. huyện (thuộc các huyện Đak Pơ, Kông Chro, đông bắc An Khê).
Người Bahnar ở Gia Lai có truyền thống cách mạng lâu đời. Trong thời kỳ Giải phóng dân tộc và chống Nhật, Tỉnh ủy Gia Lai đã chọn khu dân cư Bahnar để xây dựng cơ sở cách mạng, ảnh hưởng của cách mạng đã lan tỏa đến đồng bào Bahnar từ rất sớm. Anh hùng Núp, anh hùng Wừu của dân tộc Bahnar hiện không chỉ là niềm tự hào của đồng bào Tây Nguyên, mà còn là niềm kiêu hãnh của cả dân tộc Việt Nam.
Ngoài các dân tộc nói trên, tính đến năm 2005, ở Gia Lai có 915 người Hoa, có tổ tiên sinh sống ở đây từ những ngày đầu thành lập thị xã Gia Lai.
Từ năm 1954 đến nay, Gia Lai đã hai lần tiếp nhận một số đồng bào dân tộc thiểu số từ miền Bắc vào. Làn sóng đầu tiên là vào năm 1954, và làn sóng thứ hai là Chiến tranh Biên giới phía Bắc (cuối những năm 1970). Tính đến cuối năm 2006, có 23.770 người dân tộc thiểu số không là thổ dân ở Gia Lai, chiếm 2,04% dân số toàn tỉnh. (Nguồn tham khảo: baogialai.com.vn)